TỘC LÊ - LỆ SƠN

http://tocleleson.com


Lời thề Lũng Nhai

Lời thề Lũng Nhai
Lời thề Lũng Nhai
Kề phía Nam thị-xã Thanh-hoá, có làng Kiều-đại, là quê-ngoại của Lê Duy-Bang, thuộc dòng thứ sáu anh ruột Lê Lợi. Năm 1556, dòng Lê Lợi dứt, chúa Trịnh Kiểm tìm Duy-Bang ở đó, bèn lập làm vua để chống Mạc : tức là Anh-tông. Vì vậy, Kiều-đại trở thành quý-hương của nhà Lê trong khoảng Trung-hưng, rồi triều Gia-long dời đền thờ các vua Lê vào đó, để con cháu họ Lê trông coi.

Năm 1943, tôi được cụ thủ-từ đền ấy cho xem một bản sao đề là Lam-sơn thực-lục chép gia-phả họ Lê và chuyện Lê Lợi chống quân Minh. Tôi đã có dịp trình bày bốn văn-kiện trong tập ấy, dưới đầu-đề Những lời thề của Lê Lợi, trong hai số đầu tập-san Sử Địa xuất-bản tại Sài-gòn năm1966. Trong số bốn bài văn thề, có hai bài nôm rất quý cho ngữ-học. Một trong những bài bằng Hán-văn có liên-quan đến NGUYỄN TRÃI. Ấy là một thực-chứng cụ-thể cho cuộc khởi-nghĩa Lam-sơn khi mới nhóm, và sự Nguyễn Trãi có mặt tại Lam-sơn từ buổi đầu. Tôi sẽ gọi tắt bài ấy là văn thề Lũng-nhai, lấy tên khu nhóm họp của nghĩa-đảng đương thời, gần địa-phận Lam-sơn.

Muốn suy-kết của ta có giá-trị, ta phải chứng-minh rằng sự hội-thề ở Lũng-nhai có thật và văn-bản lời thề còn thấy là xác-thực. Tôi đã cố làm việc ấy trong bài trình. Nhưng bấy giờ tôi chỉ mới thấy một bản sao mới (năm 1931) mà thôi. Cụ thủ-từ đã cho tôi biết rằng bản chính được giữ trong một họ công-thần tại huyện Nông-cống (Thanh-hóa). May sao ! từ ngày ấy, các nhà sử-học đã lần-lượt phát hiện, nhất là tại vùng Thanh-hóa, nhiều bản khác (1). Tuy tôi chưa được thấy các bản nguyên sao, nhưng hai bản phiên âm trong sách LSTL/TH và một bản dịch trong KNLS và nhất là công khảo chứng trong sách đầu khiến tôi phải xét lại hai vấn-đề thực-hữu và xác-thực của văn-thề Lũng-nhai.

VẤN ĐỀ THỰC HỮU

Về vấn-đề thực-hữu, ta trả lời lập-tức rằng hội thề có thật. Những lẽ như sau :

1. Sau bài thệ-văn, Lam-sơn thực lục kí có chép (dịch) :

" Năm Thuận-thiên thứ 2, Kỷ-dậu (1429), ngày 17 tháng 2, các bầy tôi cùng Nguyễn Trãi tâu xin viết thệ-văn vào sách (có lẽ bằng đồng) để cất trong hòm. Rồi đến ngày 16 tháng 2 năm Hồng-đức thứ 12 (1481), vua Thánh-tông lại ban cho các công-thần mỗi nhà giữ một đạo ".

Đến ngày nay, ta còn thấy ít ra cũng 5 bản trong các họ công-thần.

2. Đời Hậu-Lê (ba phần tư thế-kỷ thứ 18), Lê Quý-Đôn đã viết chuyện một số khai-quốc công-thần triều Lê trong tập Đại-Việt Thông-sử (2). Trong chuyện 5 vị : Lê (Lưu) Nhân-Chú, Trịnh Khả, Lê Lý, Lê Văn-An và Lê Thận, đều có đoạn văn gần như nhau :

" Năm Bính-thìn (1416), Vua cùng 18 người tướng văn, tướng vũ liên danh thề ước cùng vui và cùng lo với nhau. Ông cũng được dự ".

Năm vị ấy đều có tên trong bảng tên của văn thề.

3. Năm 1428, các sử đều nói đến sự thưởng cho nhóm Lũng-nhai công-thần. Tuy nhóm ấy là kẻ theo nghĩa-quân từ khi đầu, chứ không phải có dự thề, nhưng trong sách Khâm định Việt-sử thông giám cương mục(quyển 13) cũng chú rằng Lũng-nhai là chỗ hội thề.

VĂN THỀ LŨNG-NHAI Nội-dung văn thề Lũng-nhai là : Lê Lợi họp những đồng-chí từ phương xa tới Lam-sơn theo mình, để thề trước Trời, Đất, Thần linh cùng nhau vui khổ, trước sau một lòng chống lại tụi bè đảng theo giặc tới phá sào-huyệt mình. Chỉ có 19 người đứng thề ; ý chừng đó là những người không thân-thuộc với Lê Lợi và có ý-chí và trình-độ tư-tưởng cao, hiện-diện lúc ban đầu. Trong những văn-bản còn lại, bảng tên ấy có khác bằng đổi hai tên và đảo hai chỗ. Bản họ Lê Sát có những tên Trịnh Vô, Phạm Lôi bản Đỗ Bí thay bằngĐinh Liệt, Lê Bồi. Tuy bốn vị này đều là Khai-quốc công-thần, nhưng trong bảng Công-thần khởi nghĩa mà chính Lê Lợi kể ra ở cuối bản Lam-sơn Thực-lục (3) có tên hai vị trên : Phạm Lôi và Trịnh Vô (thứ 21 và 16 trong số 35 tên). Trái lại bảng ấy không mang tên Đinh Liệt và Lê Bồi. Vì lẽ ấy, tôi nhận rằng bản Lê Sát, tuy có lầm hay sót một số chữ thông-thường, là chính-xác hơn bản Đỗ Bí hoặc bản Kiều-đại chắc sao theo bản Đỗ Bí. Còn những tên bị đổi thứ bậc, thì là : Lê Văn-Linh, Lê Văn-Anh và Lưu Nhân-Chú đứng thứ 4, 5 và 14 trong bản Lê Sát, bị đổi ra thứ 5, 4 và 15 trong bản Đỗ Bí.

Sau đây, tôi sẽ hợp-thái hai bản ấy. Sẽ cước-chú những dị-điểm, nhưng nếu có chữ sai sót thô-sơ ở bản Lê Sát mà xưa đã có nét bút chữa rồi, thì tôi sẽ bỏ qua không chú-thích, vì sách LSTL/TH đã làm rồi :

Sau đây là lời tôi dịch :

((Bui ! (cổ-ngữ đứng đầu các văn khấn)

Năm đầu niên-hiệu Thiên-khánh là năm Bính-thân (1416), quá ngày sóc (mồng một) là ngày Kỉ-mão đến ngày 12 là ngày Canh-dần. Tại nước A-NAM, lộ Khả-lam, tôi là phụ-đạo Lê-Lợi đứng đầu, với Lê-Lai, Lê-Thận, Lê Văn-Linh, Lê Văn-An, Trịnh-Khả, Trương-Lôi, Lê-Liễu, Bùi Quốc-Hưng, Lê-Nanh, Lê-Kiểm, Vũ-Uy, Nguyễn-Trãi, Lưu Nhân-Chú, Trịnh-Vô, Phạm-Lôi, Lê-Lí, Đinh-Lan, Trương-Chiến,

Chúng tôi kính cẩn đem lễ-vật, sanh-huyết mà thành-khẩn dâng lời tâu, cáo cùng Vua Trời, Hậu Đất và các thần linh bậc thượng, trung, hạ, coi các cảnh đẹp sông núi tại các xứ ta. Chúng tôi cúi xin rộng rủ lòng thương, soi xét để chứng cho việc nầy. Rằng có bạn từ xa tới kết tình vui-vẻ và rất tin nhau, cho nên phải làm lễ tâu cáo.

Nay ở nước tôi, tôi phụ-đạo Lê-Lợi đứng đầu với 18 người từ Lê-Lai đến Trương-Chiến, tuy sinh khác họ, quê quán xa cách nhưng kết nghĩa cùng nhau, xem nhau như cành liền chung một tổ. Tuy phần vinh hiển có khác nhau, nhưng nguyện đem tình đối xử với nhau như người không khác họ.

Nếu có bè đảng, vì muốn xâm-tiếm, tỏ vẻ xem chừng sắp vượt cửa vào để làm hại, thì : (4)

bằng chúng tôi đây, Lê-Lợi với 18 người từ Lê-Lai đến Trương-Chiến, có đều hiệp lực đồng tâm chống giữ địa-phương để làng xóm được yên ; nếu chúng tôi sống chết cùng nhau không quên lời thề ước, thì chúng tôi cúi xin Trời, Đất và các vị Thần linh chứng giám cho, ban xuống trăm điều lành, cho từ thân đến nhà, dòng-dõi, con cháu đều được yên lành để đời đời hưởng lộc Trời.

Ví bằng Lê-Lợi với 18 người từ Lê-Lai đến Trương-Chiến lại ra ý đổi đường, tìm sướng hiện-thời, mập-mờ sao-lãng, không chịu đồng tâm, bỏ quên lời thề ước, thì chúng tôi cúi xin Trời, Đất và các vị Thần linh phát xuống trăm tai, cho từ thân đến nhà, dòng-dõi, con cháu đều chịu giết sạch, đúng với luật Trời.

Kính cẩn tâu trình.))

Xét về văn-thái thì bài thề nầy thiếu vẻ văn chương, rõ ràng không phải một kẻ từ-hàn thảo soạn. Tuy chữ dùng có phần lệch lạc, nhưng ý nghĩa cũng đoán được chừng chừng và khá đầy đủ. Nhưng nếu ta xét kỹ nội-dung thì thấy có nhiều điểm đáng nghi-ngờ, khiến ta phải đặt vấn-đề : văn-bản lời thề Lũng-nhai còn thấy, đã bị ai bịa đặt hay sửa chữa một cách non-nớt chăng ? Tôi đã giải-thích và bào-chữa những mối nghi-hoặc ấy trong tập sanh Sử Địa dẫn trên, và đã nhận rằng văn thề ấy là chính-xác, tuy rằng văn-tự có điểm hoài-nghi. Tôi sẽ chỉnh luận như sau.

NHỮNG ĐIỂM NGHI NGỜ VÀ GIẢI THÍCH

Những điểm đáng nghi là : địa-danh, nhân-danh, thời-điểm và lịch-pháp.

1.- Địa danh

a) Tại sao không gọi tên nước là Đại Việt, hay An-nam, mà lại gọi bằng A-nam hay Hà-nam ?

Nếu có kẻ bịa hay chữa văn thề, thì ắt không gọi như thế mà dùng tiếng hô Đại Việt như trong bài Bình Ngô Đại cáo. Như văn thề chứng tỏ, ban đầu Lê-Lợi chỉ có tham-vọng lập và giữ một khu-vực nhỏ ; cho nên không thể gọi là Đại Việt, là đất của Trần. Cũng không muốn gọi là An-nam, vì đó là tên Trung-quốc xưng nước ta trước khi thôn-tính. Nếu thực gọi là Hà-nam thì có lẽ muốn trỏ phía Nam triền sông cái (Hồng-hà). Phần chắc-chắn hơn là tự gọi A-nam quốc, vì là người sau có thể lầm hay đoán cải ra Hà-nam, chứ ít lẽ làm ngược lại. Vả chăng hình như thời xưa, tên A-nam đã trỏ nước ta. Một chứng là vào cuối thế-kỷ 17 hòa-thượng Chân-nguyên còn dùng trong tác-phẩm nôm Thiền tông bản hạnh, khi chép chuyện Thiên-phong, thiền-sư nước Tống, sang chơi nước ta đời Trần rồi

" Xưng rằng : ((Lâm-tế tông xưa
" Pháp phái diễn thừa, vân thủy (đi chơi) A-nam))
(vế 330-331. Xem Tập san KHXH số 6 trang 29

A nghĩa là cái gò lớn. Ý muốn trỏ đất ở phía nam một núi nào chăng ? Hay chỉ là tiếng đọc trại của dân-gian tên An-nam chăng?

b) Tại sao lại gọi đất Khả-lam bằng lộ , chứ không gọi bằng sách như trong chính-sử. Sự ấy rất dễ hiểu. Lộ là một thành-phần của nước; sách là một thành-phần của huyện miền núi mà thôi. Đã dựng một nước, Lê-Lợi tuy chưa xưng vương, nhưng tự coi là giữ chức trấn-thủ một lộ. Vả chăng, trong bảng Ngự-danh Công-thần khởi nghĩa, Lê-Lợi đã dùng "Khả-lam lộ" để trỏ quê-quán một số công-thần. Vậy điểm nghi nầy được giải hoàn-toàn.

2.- Nhân danh

Tại sao, trong hai bản LS và ĐB, danh-sách khác nhau và thứ-tự cũng hơi khác nhau?

a) Như trên đã nói, 18 tên trong bản LS đều có trong bảng Ngự danh. Còn trong bản ĐB, và bản họ Đinh ở Nông-cống(5) thì bớt hai tên Trịnh Vô và Phạm Lôi và thế bằng hai tên Đinh-Liệt và Lê-Bồi. Mà hai tên không dự bảng Ngự danh kia. Vả chăng hai vị trên hình như mất sớm, cho nên không thấy tên ghi trong sử ngoài bảng Ngự danh riêng của Lê-Lợi. Bảng ấy ghi :

(16) TRỊNH-VÔ phong Hoằng-nghĩa hầu. Quê Khả-lam lộ. Vì dã ứng việc nước.

(21) PHẠM-LÔI phong Lễ-đình hầu. Quê Khả-lam lộ. Vì ứng việc nước. (Xem LSTL/TH tr. 200)

Trái lại hai vị sau, công-nghiệp về sau hiển-hách. Trong bảng Đàm Văn-Lễ kê tên các Khai quốc công thần (1500), có tên Lê Bồi đứng thứ 40 trong số 96 "người không có tên trong Lam-sơn Thực-lục", ghi với sự-nghiệp như sau (LSTL/TH tr. 211) :

(40) LÊ-BỒI (tóm tắt :) Năm 1428 làm đổng tổng-quản Lộ Tam-đới, kiêm coi các quân Thần-dực, Thần-hùng, Thần-uy. Được ban quốc-tính, phong hàm thiếu-úy. Mất năm 1438.

Đến như Đinh-Liệt, thì sự-nghiệp to-tát hơn nhiều, vừa là Khai quốc công-thần (đứng thứ 12 trong sổ Đàm Văn-Lễ phần có tên trong Lam-sơn Thực-lục (LSTL/TH tr. 206), vừa là Trung-hưng công-thần, vì đã dự cuộc đảo ngôi của Nghi-Dân và lập Lê Thánh-tông. Ông lại lập công dẹp họ Cầm, đánh Chiêm-thành bắt Trà-Toàn. Cầm quyền-bính trong 10 năm, tước Lân quận-công, rồi được an toàn mất năm 1471 (xem ĐVTS tr. 169-172). Dòng họ rất nhiều, nhất là ở huyện Nông-cống. Bản văn thề dịch trong KNLS thấy ở họ Đinh Nông-cống chắc đã xuất phát từ đời Đinh-Liệt.

Làm sao bản ấy có tên Đinh-Liệt và Lê-Bồi ? Tôi phỏng đoán như sau. Sau khi hòa-bình rồi, Đinh-Liệt, Lê-Bồi có quyền thế. Đến năm 1481, nhân lúc Lê Thánh-tông cho con cháu công-thần khai-quốc được sao và giữ các bản thề để trong cung, thì con cháu đã tự (có lẽ đồng lõa) bỏ hai tên mà không ai còn dể ý đến nữa mà thế tên cha ông mình vào. Hoặc là họ được phép nhà Vua cho làm vậy ?

b) Bản ĐB đảo thứ-tự Lê Văn-Linh và Lê Văn-An, và hạ Lưu Nhân-Chú xuống một bậc, ý chừng để đặt tên Đinh-Liệt lên trên. Nên để ý đến sự bản ĐB chép họ của Nhân-Chú bằng họ quốc-tính và tên lại đổi ra chữ Thụ giống tên thật cũng có âm Thụ. Tôi nghĩ rằng chỉ bởi kẻ sao lầm mà đã có sự thay thứ bậc ấy.

Theo biện-luận trên, sự bất đồng về nhân-danh giữa hai văn-bản không những không làm ngờ chính-xác về phương-diện nầy.

3.- Thời điểm

Văn thề mang niên-hiệu Thiên-khánh năm đầu là năm Bính-thân. Theo phép kỷ-niên thì Bính-thân là năm 1416. Bấy giờ các vua Trần, Giản-định và Quý-Khoách đều đã bị bắt. Vậy thì niên hiệu Thiên-khánh là của vua nào? Tất cả các sử sách đều chép rằng Lê-Lợi tìm được một cháu vua Trần, đặt tên Trần-Cảo, rồi lập làm vua, lấy niên-hiệu Thiên-khánh. Vậy cứ vào văn thề thì năm lập Trần-Cảo phải là năm 1416, khác hẳn với lời Lê Quý-Đôn chép : tháng 11 năm Ất-tị (1425) lậpTrần-Cảo làm vua, đặt niên hiệu là Thiên-khánh (ĐVTS tr. 48). Nếu chứng-minh được lời Lê Quý-Đôn có lý, thì ta có thể ngờ bản văn thề.

Những sách căn-bản về thời-kỳ nầy như Đại Việt Sử-ký Toàn-thư (viết tắt : ĐVSKTT), LAM SƠN THỰC LỤC bản LSTL/TH hay là bản khác năm 1676 (viết tắt : LSTL/BK) đều không chép đích-xác chuyện lập Trần-Cảo vào năm nào, mà chỉ dùng chữ nghĩa "đang thời hoặc bấy giờ" và biên vào năm nào đó khi muốn nói chuyện khác có liên-quan đến chuyện Trần-Cảo : ĐVSKTT đặt vào năm 1426 ( quyển 10/24b); LSTL/TH đặt vào cuối sách, năm 1428 (tr.197); LSTL/BK lại đặt một cách vô-tình vào năm 1423 (quyển 1/12a).

May còn các di-văn của Nguyễn-Trãi thay lời Lê-Lợi hoặc Trần-Cảo, hoặc cả hai người gửi sang vua Minh để kể lai-lịch Trần-Cảo (6). Trong năm bản biểu tấu viết trong thời kỳ ngoại giao và tâm-chiến, Nguyễn-Trãi đều khai rằng : Trần-Cảo là cháu vua Nghệ-tông, trốn tránh họ Hồ ở nước Lão-qua. Năm Ất-tị (1425) Lê-Lợi và quốc-dân tìm thấy, năm sau đem về rồi ép cầm quyền. Chắc hẳn rằng Lê Quý-Đôn đã tựa vào các văn-kiện nầy để đặt niên-hiệu Thiên-khánh bắt đầu vào năm 1425.

Ta lại có thể nghĩ rằng những lời trình với vua Minh chỉ là lời ngoại-giao, chứ chưa chắc đã bày sự thật. Nhưng Nguyễn-Trãi còn để lại một chứng khẳng-dịnh hoàn-toàn sự ấy: bản văn tấu cáo với linh-vị các vua Trần xưa chuyện tìm được Trần-Cảo đã lập lên nối ngôi họ Trần và xin linh-hồn các vua xưa giúp-rập. Trong lời cáo có đề năm Thiên-khánh thứ 2 là năm Bính-ngọ (1426) và cũng kể chuyện tìm được Trần-Cảo năm trước (1425).

Vì bài Tấu cáo văn (Quân trung từ mệnh tr.14b) nầy rất là quan-trọng đối với bản Thề Lũng-nhai, tôi sẽ dịch ra sau :

Tôi dịch như sau :

Văn tấu cáo

"Bui !

Năm thứ 2 niên-hiệu Thiên-khánh là năm Bính-ngọ (1426), tháng chạp, quá ngày Canh-thân là ngày sóc (mồng một) đến ngày 29 là ngày Mậu-tí, tôi là Lê-Lợi, giữ chức Nhập nội kiểm-hiệu Thái-sư, coi các việc trọng về Nước, về quân, thay Trời giáo-hóa, đeo đãy Cá vàng, mang phù Hai hổ vàng, tước Tráng-vũ Vệ-quốc công (7),

Thật sợ, thật hãi, cúi đầu, rập đầu, kính cẩn tâu
Hoàng-đế Thái-tông, Thái-hậu Hiến-từ Thuận-thiên,
Hoàng-đế Thánh-tông, Thái-hậu Nguyên-thánh,
Hoàng-đế Nhân-tông, Thái-hậu Khâm-từ,
Hoàng-đế Anh-tông, Thái-hậu Chiêu-từ,
Hoàng-đế Minh-tông, Thái-hậu Hiến-từ,
Hoàng-đế Nghệ-tông, Thái-hậu Thuận-từ,
Hoàng-đế Túc-tông, Thái-hậu Gia-từ,
Bệ-hạ Trùng-quang (8).

Cha ông tôi đã chịu ơn Vua rất hậu, nhiều đời làm kẻ can thần. Theo nghĩa, tôi đáng phải tỏ lòng trung và hết sức báo-bổ. Từ khi giặc Minh cướp đất nước ta, làm hại sinh-linh, phạm đến lăng miếu các Tiên-đế, giết hết con cháu họ Trần. Tôi đã nằm gai nếm mật hơn 20 năm. Chí cốt phục thù để rửa thẹn trước.

Năm Ất-tị (1425), tại đất Lão-qua, tôi đã tìm được cháu ba đời vua Nghệ-tông, là Trần "mộ". Năm nay đã lập nên ngôi để thờ tông-xã (9).

Nghĩa binh một khi đã dậy, bốn phương tuôn lại như mây. Đánh một trận tại Trà-long (tháng 2 năm Giáp-thìn 1424) mà thu phục đất Nghệ-an, Thanh-hóa. Lại đánh một trận ở Ninh-kiều (tháng 10 năm Bính-ngọ 1426) mà thu phục cõi xưa của Đại-Việt. Quân giặc tại các xứ đều ra thành xin hàng. Chỉ còn thành Đông-quan là chưa kịp diệt.

Ấy thật là bởi có Trời giúp họ Vua Trần, cho nên mới thành công chóng như thế. Và chúng tôi là kẻ mang giáp cầm đòng cũng may được dự chút công.

Cúi mong các Vua xưa cùng rủ lòng giúp đánh diệt quân Minh dữ tợn, dể được hưởng phúc muôn đời".

Văn tấu cáo nầy có tính-cách tôn-giáo trịnh-trọng. Không lẽ Lê-Lợi đã bịa đặt những điều để đối với các vong-linh các vua xưa, trong khi mình đang cầu vong-linh giúp. Sự giả dối vì chính trị không lẽ để phạm vào tôn-giáo. Ta có thể tin chắc rằng năm Thiên-khánh thứ nhất là năm Ất-tị 1425, nếu Thiên-khánh là niên-hiệu của Trần-Cảo. Thế thì văn-bản lời thề Lũng-nhai chép "niên hiệu Thiên-khánh nguyên niên Bính-thân (1416)" là sai chăng ? Tôi nghĩ rằng chưa chắc sai, vì niên-hiệu Thiên-khánh trong văn thề không phải niên-hiệu của Trần-Cảo.

Ta thử theo dõi chuyện Trần-Cảo qua các nguồn sách đáng tin. ĐVSKTT cho biết rằng Cảo là tên Hồ-Ông, con một kẻ ăn mày trốn ở với Cầm-Quý; rồi giả xưng dòng họ Trần tên Địch (qu. 10 tr. 24b). LSTL/TH chép gần như vậy, nhưng đổi Cầm-Quý ra Cầm-Hội, hai chữ Hội và Quý có thể lầm lẫn (tr. 197). LSTL/BK lầm chép rằng tên người ấy là Cầm-Quý (qu. 1, tr. 12a); nhưng ở cuối sách lại chép như LSTL/TH nhưng đổi tên Cầm-Hội ra Cầm-Quý (qu. 36a). về Cầm-Quý, ĐVSKTT cho biết rằng y là tri-phủ châu Ngọc-ma tại phía tây lộ Nghệ-an; đầu năm Ất-tị (1425), được tin Lê-Lợi sắp đánh thành Nghệ-an, Cầm-Quý đưa hơn 8000 quân và hơn 100 thớt voi đến yết và xin giúp (qu. 10/16a). Lê Quý-Đôn biên thêm:"Cầm-Quý được phong chức thái-úy (ĐVTS tr. 46). Tháng 11, lập Trần-Cảo làm vua, đặt niên-hiệu Thiên-khánh. Trần-Cảo chính tên là Hồ-Ông, lánh nạn đến châu Ngọc-ma; thổ-quan là Cầm-Quý đã giả-mạo nói ông là dòng-dõi vua Trần. Cho nên Lê-Lợi đón rồi lập, giao cho Bùi Quốc-Hưng coi giúp" (ĐVTS tr. 48).

Theo các chi-tiết trên, ta thấy rằng chính Cầm-Quý giới-thiệu Hồ-Ông cho Lê-Lợi trong năm 1425, đúng như lời Nguyễn-Trãi đã viết trong những công-điệp và văn cáo dẫn trên (10)

Kết luận là khi hội thề ở Lũng-nhai, chưa có Trần-Cảo mà chắc rằng cũng chưa tìm được con cháu nào dòng vua Trần. Ý tìm dùng con cháu vua Trần làm minh-chủ chắc là có trong Bình Ngô sách của Nguyễn-Trãi dâng cho Lê-Lợi. Tuy bấy giờ chưa tìm được ai, nhưng cũng giả làm như đã có rồi. Cho nên đặt niên-hiệu vua Trần tượng-trưng là Thiên-khánh. Rồi sau, sự kháng địch vất-vả gian-nan, chưa chắc đã có cơ-hội nối dùng niên-hiệu ấy. Đến khi Cầm-Quý giới-thiệu Hồ-Ông, nguyên tên là Trần-Định cháu ba đời Nghệ-tông, thì mới định dùng lá bài lập ngôi Trần để thi-hành tâm-chiến. Lê-Lợi bèn dùng lại niên-hiệu Thiên-khánh kỷ-nguyên vào năm 1425. Còn tên Trần-Cảo là tên mới, của các vua ta xưa tự đặt để giao-thiệp với Trung-quốc. Nói tóm-tắt : vấn-đề niên-hiệu trong văn thề Lũng-nhai không đáng làm ngờ văn-bản lời thề.

4.- Lịch pháp

Trong văn thề nầy, cũng như trong các văn cúng tế quan-hệ thủa xưa, người ta tỏ rõ kỷ-pháp về ngày tháng, nghĩa là chỉ các số can-chi của ngày mồng một và ngày cúng : ở đây chép ngày mồng một tháng 2 năm Bính-thân là Kỉ-mão, và ngày 12 tháng ấy là Canh-dần. Ngày xưa dùng phép ghép 10 bậc Can, song-song với 12 bậc Chi; bắt đầu ghép Can số 1 (Giáp) với Chi số 1 (Tí), rồi lần-lượt đến ghép Can và Chi bậc 10 (Quí-dậu), rồi ghép Can thứ 1 trở lại với Chi thứ 11, vân vân, cho đến cuối cùng ghép Can thứ 10 với Chi thứ 12 (Quí-hợi). Làm như vậy được 60 cặp Can-chi mà ta sẽ gọi là số can-chi. Trong lịch xưa dùng số ấy để gọi các thời-điểm : năm, tháng, ngày. Phép gọi như vậy có tên là kỷ-pháp. Riêng phép gọi ngày là kỷ-nhật.

Theo lý-thuyết, thì mỗi nước có thể chọn một ngày nào can-trọng trong quốc-sử hoặc về hiện-tượng thiên-văn, để làm gốc cho phép kỷ-nhật, nghĩa là để gọi là ngày Giáp-tí. Nhưng khi đã chọn gốc rồi thì tên hay số can-chi của tất cả các ngày sau sẽ bị cố-định. Ở nước ta, một vài dấu-tích trong quốc-sử cho ta đoán rằng ta đã theo lịch-pháp của Trung-quốc, nhưng mỗi khi một triều-đại mới ở Trung-quốc đổi pháp tính lịch cho hợp thiên-văn, thì ta không theo liền. Tuy vậy, về kỷ-niên, kỷ-nhật thì y như nhau. Chính trong bài Tấu cáo văn trên đây, phép kỷ-nhật đúng với phép lịch Đại-thống của triều Minh.

Nếu ta so kỷ-nhật trong văn thề Lũng-nhai (ngày sóc Kỷ-mão ngày 12 Canh-dần) với kỷ-nhật trong lịch Đại-thống (ngày sóc Giáp-tí, ngày 12 Ất-hợi) thì thấy lệnh đi 15 bậc (11). Sự lệch-lạc ấy có thể làm ta ngờ rằng đã có kẻ bịa bài thề kia một cách vụng về, vì không biết lịch-pháp.

Ta có thể tìm nhiều cách hiểu vì sao có sự so-le ấy:

a) Kẻ sao lại bản cũ đã sai lầm chăng ? Trừ sự lầm chữ Kỷ ra chữ Ất (11) thì không thể có sự lầm vì tự-dạng mà vẫn giữ được khoảng cách 11 bậc giữa kỷ-nhật ngày sóc và ngày 12.

b) Hoặc rằng Lê-Lợi đã theo lịch của nhà Trần hay nhà Hồ mà hoặc Trần hoặc Hồ đã tự đổi gốc kỷ-nhật để tỏ sự độc-lập của mình ? Theo ĐVSKTT, năm 1330, lịch ta có tháng 3 nhuận, khác với lịch Thụ-thời nhà Nguyên có nhuận tháng 8. Vậy bấy giờ có lẽ Trần còn theo lịch nhà Tống. Năm1324, sứ Nguyên báo tin vua Thái-định lên ngôi và ban lịch Thụ-thời của nhà Nguyên. Bảy năm sau, sứ lại sang báo tin vua Văn-tông lên ngôi và ban lịch Thụ-thời nữa (Nguyên-sử). Chắc rằng ta nhận theo :

Bia Thành-nam ở Nghệ-an cho ta biết rằng lịch Trần có tháng chạp nhuận như lịch Nguyên năm 1335. Bốn năm sau, 1339, viên thái-sử Đặng Lạc nhà Trần xin đổi lịch Thụ-thời đang dùng ra lịch Hiệp-kỷ(ĐVSKTT/qu.7/9a). Nhưng ngày xưa nói đổi lịch có khi chỉ đổi tên gọi mà thôi. Nay ta không có chứng gì để đoán có sự thay đổi sâu hơn.

Năm 1368, nhà Minh thay nhà Nguyên, bèn đổi lịch Thụ-thời ra lịch Đại-thống; tuy có dự-định đổi lịch-pháp một ít, nhưng cuối cùng chỉ có đổi tên gọi mà thôi. Năm sau, sai sứ sang nước ta phong tước Vương và ban lịch Đại-thống (Minh-sử Annam truyện). Có lẽ vua Trần nhận theo : lịch ta năm 1371 có tháng 3 nhuận như lịch Đại-thống.

Năm 1400, Hồ thay Trần. Năm sau, Hồ đổi lịch Hiệp-kỷ của Trần ra lịch Thuận-thiên (ĐVSKTT qu.8/29a) ý muốn tỏ rằng mình thay Trần là thuận mệnh Trời. Ta cũng không biết có sự thay đổi gì về lịch-pháp. Nhưng nếu trong hai lần kể trên nước ta đổi lịch, vua Trần hay Hồ đổi kỷ-nguyên ngày để tỏ ý độc-lập, thì lịch ta có lẽ so-le với lịch Đại-thống trong khoảng sau.

Trong lý-thuyết, chính Lê-Lợi khi mới khởi-nghĩa, cũng có thể làm việc ấy. Nếu định rằng ngày rằm tháng giêng năm Bính-thân ấy là ngày Giáp-tí, thì kỷ-nhật trong văn thề không sai.

c) Trên đây đều là những giả-thuyết có thể xẩy ra để giảng sự chênh-lệch giữa kỷ-nhật trong văn thề và lịch Đại-thống. Tôi nghĩ rằng sự thật là đơn-giản hơn nhiều. Số là, năm 1416 Hồ đã mất mười năm rồi. Lịch dùng trong nước ta hẳn là lịch Đại-thống. Nhưng nó chẳng được phổ-biến đến những vùng hẻo-lánh như Lam-sơn. Về tháng đủ, tháng thiếu, tháng nhuận thì dễ biên sao, còn kỷ-nhật ít dùng, nên không ghi chép. Có lẽ chỉ vì thế, khi cần viết kỷ-nhật vào văn thề, nhóm nghĩa-đảng Lam-sơn đã bịa ra như vậy.

KẾT LUẬN Nói tóm lại, tuy bản văn thề Lũng-nhai có nhiều điểm khả nghi có thể làm ta thắc mắc, nhưng với lý-luận phân-tích không tây-vị, tôi đã tìm những lẽ hay những chứng cụ-thể và duy-vật để giải-thích rằng, ngoài một vài văn-tự còn khả-nghi, văn bản của họ Lê-Sát là chính-xác.

PHỤ LỤC : ĐỒNG TRỤ THỆ

Sau khi bị giam chặt trong thành Đông-quan, Vương-Thông lại được tin viện-binh bị tan rã ở biên-thùy, y bèn chịu nhận thi hành lời hẹn với Lê-Lợi :"Đình chiến thì được cấp mọi phương tiện đem tất cả tướng sĩ về nước một cách yên-ổn".

Sách Đại Việt sử-ký Toàn-thư có chép (quyển 10, trang 43) rằng : "Ngày 22 tháng 11 (năm Đinh-vị 1427) Vua và tổng-binh Vương-Thông cùng tham-tướng Mã-Anh, các Thái-giám Sơn-Thọ, Mã-Kỳ, vân ...vân, hội thề ở phía nam thành Đông-quan, hẹn đến ngày 12 tháng chạp sẽ rút quân"

Đầu bản Lam-sơn Sự-tích của họ Đỗ-Bí (xem LSTL/TH tr. 76) có một bài thệ-văn đề là :

Tôi dịch ý như sau : bài ca thề khắc trên cột đồng dựng lên bởi hai nước : Giao-chỉ là Núi, Đại Minh là Sông (ý : thề sông cạn núi mòn). Từ rày về sau, không gây chiến tranh. Hai bên Thiên-triều và Nam-Việt, Hai nước hòa cùng nhau. Nếu đánh nước nhỏ, trên Trời sẽ nổi cơn giận mà trừng trị. An-nam sẽ dâng cống, sắm đủ hương trà. Vậy dựng cột đồng, để lưu truyền trong mọi nhà (đồng trụ cũng như thiết khoán là vật bền để khắc lời thề cho giữ được lâu dài)

Tất nhiên rằng lời và ý trong văn thề khá thô sơ, nhưng tôi không có bản khác để so sánh. Vậy xin lục ra để dễ nghiên cứu về sau.

 

Chú thích

(1) Lam-sơn Thực lục bản mới phát hiện, Ty Văn hóa Thanh-hóa, năm 1976 (viết tắt LSTL/TH) cho biết có bản họ Lê-Sát ở huyện Yên-định, phiên âm ở trang 201, và bản của họ Đỗ-Bí ở huyện Nông-cống (xem trang 76) và phiên âm ở trang 307. Các ông Nguyễn Diên-Niên khảo chứng và Lê Văn-Uông chủ dịch rất công-phu và hoàn-hảo tập sách nầy. Khởi nghĩa Lam-sơn, Khoa-học Xã-hội năm 1977, cho biết thêm có bản của họ Đinh tại huyện Nông-cống, bản họ Lưu Nhân-Chú ở huyện Đại-từ (Thái-nguyên), bản họ Nguyễn ở làng Thịnh-mĩ, huyện Thọ-xuân (tr. 134) và bản họ Nguyễn ở làng Mục-sơn (tr. 129). Có lẽ hai bản cuối cùng là tài-liệu mới (viết tắt KNLS). Trang 133 có bài dịch "văn thề Lũng-nhai", dựa vào bản của Gia-phả họ Đinh (Nông-cống) và bản Gia-phả họ Lê ở Kiều-đại (có lẽ bản mà tôi đã đọc)

(2) Đại Việt Thông-sử (viết tắt : ĐVTS) là bộ sách mà Lê Quý-Đôn viết về sử triều Lê theo phép không biên-niên; gồm những phần Đế kỷ, Chư chí Liệt truyện. Có tựa viết năm 1759. Nay chỉ còn thấy một phần, cho nên nhiều chứng thiếu, thật là đáng tiếc. Tôi sẽ dẫn bản dịch Khoa-học Xã-hội 1978 : Lê-Lý (tr. 217), Lê Văn-An (tr. 219), Lê-Thận (tr. 220), Lê Nhân-Chú (tr. 204), Trịnh-Khả (tr. 207).

(3) LSTL/TH tr. 199-201. Trong bảng đề Ngự danh tam thập ngũ danh các họ có người thì viết họ Lê vì được ban quốc-tính, có người thì còn nguyên họ mình, như Lưu Nhân-Chú, Nguyễn-Trãi.

(4) Trên trang trước đã ghi những dị-điểm trong văn thề giữa hai bản LS và ĐB. Những điểm quan-trọng là b, e, f, và m. Điểm b : bản ĐB đổi tên nước A-NAM ra Hà-Nam, vì hai chữ rất giống nhau. Những điểm e, f : bản ĐB đổi tên người và đổi thứ-tự. Còn điểm m thì tôi theo bản Kiều-đại, vì tôi đoán rằng bản ĐB cũng viết như vậy. Dẫu sao, chữ và ý câu nầy dáng nghi ngờ. Các ông Nguyễn Diên-Niên và Lê Văn-Uông đã vin vào các tự dạng mà , để hiểu câu nầy rằng : "Ví như đảng Minh xâm tiếm, bắt họ Trần, bắt họ Hồ" ý rất thông nhưng bấy giờ Hồ và Trần đã hết (1407, 1414). Vả thoại dịch của tôi chỉ ép vì , hai chữ đồng âm. Hai bản LS và ĐB lại trùng nhau. Vì vậy tôi tạm để nguyên thoại.

(5) Theo bản dịch trong KNLS tr. 133 dùng bản họ Đinh tại Nông-cống, tức là một chi họ Đinh-Liệt (ĐVTS tr. 169-172)

(6) Di-văn rút từ Ức-trai tập (viết tắt : UTT) khắc năm 1868 đời Tự-đức, quyển 3 : Văn loại (viết tắt UTT/VL) và quyển 4 : Quân trung từ mệnh (viết tắt UTT/QTTM). Có 4 bài sau : 1. Cầu phong biểu văn (/VL 13a) : Lê-Lợi cầu phong cho Trần-Cảo (1426) - - 2. Cầu phong tấu văn (/QTTM 41a) : Trần-Cảo cầu phong - - 3. Trình tình tạ tội biểu văn (/VL 1a): Trần-Cảo và Lê-Lợi xin lỗi đã chống lại quân Liễu-Thăng, báo tin Vương-Thông sắp dẫn toàn quân về, và xin phép cống hiến theo lệ cũ (1427) - - 4. Tạ ân trần tình biểu văn (/VL 3b) : Lê-Lợi cảm ơn vua Minh đã xá lỗi và báo tin Trần-Cảo đã mất, họ Trần hết giống. Xin tạm coi nước đợi mệnh, (1427) - - 5. Phóng cầu Trần thị tứ tôn tấu văn (/VL 6b) : Lê-Lợi đáp dụ báo cố tìm con cháu họ Trần sau khi Cảo đã mất. YÙ nói thật không còn ai nữa 1428).

(7) Những chức tước nầy có phần chỉ bịa ra để xưng mình là tể-tướng triều Trần mà thôi. Đối với vua Minh thì Lê-Lợi tự xưng "đầu mục". Ban đầu còn xưng là Tri-phủ các phủ tại Thanh-hóa.

(8) Không hiểu vì sao thiếu những vua Hiến-tông, Dụ-tông đều là anh Nghệ-tông. Gia-từ là vợ Duệ-tông em Nghệ-tông. Vậy Túc-tông trong văn cáo tức là Duệ-tông. Các vua nối sau đều bị bỏ rơi, trừ vua cuối cùng là Trùng-quang thì Lê-Lợi coi như còn sống (thực ra đã tự trầm)

(9) Dùng chữ "mộ" vì kiêng tên húy.

(10) Rồi đem Trần-Cảo để ở núi Khổng-lộ (có lẽ là núi Trỗ-Đó ở trong dãy núi Tam-điệp (Thanh-hóa giáp Ninh-bình). Tháng 11 năm sau (1426) dời y đến Vũ-ninh (ĐVSKTT/qu. 10/24b). ĐVSKTT có chú thích rằng :"dời y đến Ninh-giang, rồi năm sau (1428) lại dời Cổ-lộng (Kẻm-Trống ở Ninh-bình (qu. 10/55b) giao cho Lê-Ngang trông coi. Trần-Cảo trốn vào Nghệ-an. Lê-Ngang đuổi theo bắt về, Lê-Lợi hỏi : ((Đã được lập lên ngôi và đặt hiệu, sao lại có lòng khác mà bỏ trốn ?)) Cảo đáp : ((Quả-nhân không công, mà tướng quân trùm thiên-hạ. Ai lại trồng cây mà lại để cho người khác ăn. Ta sợ chết mà trốn, chứ không lòng khác. Xin được toàn thân mà chết)) Rồi được cho tự thắt cổ (LSTL/BK, qu. 1/12b)

(11) Bản ĐB chép lầm : đổi Kỷ-mão ra Ất-mão, thành không ăn khớp với kỷ-nhật Canh-dần của ngày 12. Sự lầm tự-dạng giữa hai chữ Ấtvà Kỉ , giữa Tí và Ngọ thường rất hay gặp.

(Theo bản in Tập san Khoa học xã hội
Paris,
Số 7, tháng 10. 1980)
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây